Trang chủBáo cáo chính trịToàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020

    Toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 – 2020

     

    images1213156 VI NHET DAI HOI 4   lung nen 4 mau

     

    ĐẨY MẠNH HƠN NỮA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, PHÁT HUY DÂN CHỦ, BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG; HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC, QUYẾT TÂM ĐƯA QUẢNG NAM PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH TỈNH GIÀU MẠNH TRONG KHU VỰC DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

     

     

    Toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 – 2020

    ĐẨY MẠNH HƠN NỮA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, PHÁT HUY DÂN CHỦ, BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG; HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC, QUYẾT TÂM ĐƯA QUẢNG NAM PHÁT TRIỂN NHANỮNTHÀNH TỈNH GIÀU MẠNH TRONG KHU VỰC DUYÊN HẢI MIỀN 

    Tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh (từ ngày 12 đến 14.10.2015), từ tháng 8.2014, Tỉnh ủy đã thành lập Tiểu ban văn kiện và Tổ biên tập văn kiện để triển khai các bước xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI. Quá trình xây dựng dự thảo Báo cáo Chính trị được thực hiện nghiêm túc, công phu, khoa học, với việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các bộ, ban, ngành Trung ương; các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; các đồng chí nguyên là lãnh đạo tỉnh; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ; chức sắc tôn giáo, doanh nhân của tỉnh và đại hội Đảng cấp trên cơ sở. Dự thảo Báo cáo Chính trị cũng đã được trình và tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị.

    PHẦN THỨ NHẤT
    TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XX (NHIỆM KỲ 2010-2015)

    Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh chung của cả nước, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, biến động tình hình chính trị trong khu vực, việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX gặp không ít khó khăn, thách thức; nhưng với truyền thống cách mạng kiên cường, phát huy dân chủ, bản sắc văn hóa và tinh thần đoàn kết, tự chủ, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần nghiêm túc kiểm điểm làm rõ nguyên nhân và đề ra giải pháp để khắc phục; đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục phát huy trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra.

    I- NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
    1- Kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô được nâng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực
    Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân gần 11,5%/năm. GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 41,4 triệu đồng, vượt 6,4 triệu đồng so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra (theo phương pháp tính mới và công bố của Tổng cục Thống kê thì GRDP của tỉnh Quảng Nam tăng bình quân 9,92%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 36,2 triệu đồng). Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 24,8 triệu đồng (1). Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân khoảng 15,2%/năm, trong đó, thu nội địa tăng bình quân 22%/năm, thu xuất nhập khẩu tăng bình quân 6,1%/năm.
    Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GRDP giảm từ 22,4% năm 2010 xuống còn khoảng 16%, công nghiệp – xây dựng tăng từ 39,4% lên khoảng 42% và dịch vụ tăng từ 38,2% lên khoảng 42% vào năm 2015. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân 14,7%/năm; trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp (giá năm 2010) tăng bình quân hơn 15,2%/năm. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh đã khẳng định được vị thế trên thị trường như: ô tô, giày da, may mặc, bia, nước giải khát, điện sản xuất, linh kiện điện tử, vật liệu xây dựng,… Các ngành thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông, thương mại phát triển tốt. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân hơn 15,3%/năm. Du lịch phát triển cả về quy mô và chất lượng, đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, doanh thu từ du lịch tăng bình quân 24,6%/năm. Tổng giá trị xuất khẩu hơn 2,8 tỷ USD, tăng bình quân trên 22%/năm.
    Nông nghiệp đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với thị trường. Việc thực hiện dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng lớn, thủy lợi hóa đất màu, chuyển đổi giống cây trồng, con vật nuôi, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp… đạt nhiều kết quả quan trọng. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng bình quân 4,9%/năm. Nhiệm kỳ qua, tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể và đạt được kết quả khá tích cực. Số lượng tổ hợp tác, hợp tác xã thành lập mới tiếp tục tăng (2); nội dung phương thức hoạt động nhiều hợp tác xã từng bước được đổi mới, sự liên kết giữa các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với doanh nghiệp, hộ thành viên trong sản xuất và bao tiêu sản phẩm ngày càng mở rộng và hiệu quả.
    2- Phát triển vùng được quan tâm, tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng được phát huy; diện mạo thành thị, nông thôn có bước phát triển mới
    Trong nhiệm kỳ, đã thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phát huy tiềm năng và lợi thế của các vùng kinh tế của tỉnh.
    2.1- Vùng đồng bằng ven biển, hải đảo được xác định là vùng động lực của tỉnh, nên trong nhiệm kỳ qua đã được quan tâm đầu tư phát triển nhằm khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh về tự nhiên, nhất là kinh tế biển, công nghiệp, dịch vụ, du lịch… Các thành phần kinh tế hoạt động trong vùng đã đóng góp trên 90% tổng thu ngân sách trên địa bàn, đây là nguồn lực quan trọng để bố trí các khoản chi đầu tư phát triển trên toàn tỉnh, đồng thời, giải quyết hàng trăm ngàn việc làm mới, góp phần tích cực giảm tỷ lệ thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao thu nhập cho người dân.
    Khu Kinh tế mở Chu Lai, một trong năm khu kinh tế trọng điểm ven biển của cả nước được tập trung đầu tư hạ tầng và thu hút nhiều dự án. Đến nay, có 64 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng 780 triệu USD, trong đó, riêng từ năm 2010 – 2015, thu hút được 51 dự án đầu tư với tổng giá trị đăng ký đầu tư 489 triệu USD. Các doanh nghiệp đang hoạt động trong Khu kinh tế mở đã tạo ra hơn 12.000 vị trí việc làm mới, đóng góp bình quân trên 60% tổng thu ngân sách hàng năm trên địa bàn tỉnh, nổi bật là Khu liên hợp cơ khí ô tô Chu Lai Trường Hải. Cảng Hàng không Chu Lai đang ngày càng phát huy hiệu quả tốt. Ngoài ra, tỉnh cũng đã quy hoạch xây dựng 4 khu công nghiệp, thu hút 74 dự án với tổng vốn đăng ký trên 10.300 tỷ đồng, giải quyết trên 25.000 lao động, trong đó, hơn 80% là lao động địa phương. Bình quân giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm tạo ra từ các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp này ước đạt trên 21.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng hơn 43% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm đạt 296 triệu USD, chiếm tỷ trọng trên 45% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh (3).
    Chuỗi đô thị khu vực đồng bằng ven biển có sự phát triển khá. Thành phố Hội An tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển theo hướng trở thành thành phố văn hóa, sinh thái, du lịch, thu hút lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế. Thành phố Tam Kỳ về cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại II, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Huyện Điện Bàn, cửa ngõ quan trọng phía bắc của tỉnh kết nối với thành phố Đà Nẵng, đã được công nhận thị xã, các đô thị trung tâm các huyện đồng bằng cơ bản đạt chuẩn đô thị loại IV trở lên.
    Phát triển tổng hợp kinh tế biển được chú trọng. Với việc tăng nhanh số lượng tàu công suất lớn, đầu tư thâm canh diện tích nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản, giá trị sản xuất của ngành thủy sản liên tục tăng (4). Các chính sách hỗ trợ phát triển ngư nghiệp, ngư dân của Chính phủ đang được tổ chức thực hiện tốt. Du lịch biển ngày càng phát huy hiệu quả với sự phát triển của nhiều dự án du lịch, nghỉ dưỡng ven biển; khai thác du lịch đảo Cù Lao Chàm bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể. Dịch vụ hàng hải được quan tâm đầu tư với cảng biển Kỳ Hà và Tam Hiệp đang hoạt động tốt.
    2.2- Vùng trung du, miền núi có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của tỉnh Quảng Nam. Trong 5 năm qua, tỉnh đã tập trung đầu tư tương đối đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là hạ tầng giao thông kết nối giữa các trung tâm huyện đến các xã và liên kết giữa các huyện với các tuyến quốc lộ, đường Hồ Chí Minh, góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương miền núi với khu vực đồng bằng, ven biển và với Tây Nguyên.
    Mạng lưới điện đã phủ hầu hết các xã. Khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang đang từng bước được đầu tư nhằm thúc đẩy giao thương hàng hóa với các tỉnh Nam Lào; cửa khẩu phụ Tây Giang – Kà Lừm cũng đang được xúc tiến đầu tư.
    Bảo vệ và phát triển vốn rừng được quan tâm. Ngày càng nhiều doanh nghiệp đã và đang hợp tác với người dân mở rộng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế như cây cao su, cây keo… Hàng ngàn hộ nông dân nhận khoán trồng, chăm sóc cao su, keo đã có thu nhập từ 2,5 đến 3,5 triệu đồng/tháng, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong vùng. Các chính sách về giao đất trồng rừng sản xuất, giao khoán quản lý, bảo vệ rừng, chi trả dịch vụ môi trường rừng… được thực hiện tốt, hạn chế được tình trạng khai thác lâm sản trái phép. Đã nghiên cứu bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, ba kích, quế và một số loại cây dược liệu quý.
    Các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo của quốc gia và của tỉnh được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ, đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ hộ nghèo ở 9 huyện miền núi giảm đáng kể, từ 57,95% năm 2010 còn 36,98% năm 2014 và dự kiến còn 32% vào cuối năm 2015, bình quân mỗi năm giảm 5,19%, riêng các huyện 30a (Tây Giang, Nam Trà My, Phước Sơn), bình quân mỗi năm giảm 5,4%.
    3- Thực hiện các nhiệm vụ đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư đạt được những kết quả nổi bật
    – Kết cấu hạ tầng được đầu tư ngày càng đồng bộ, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững. Mạng lưới giao thông được ưu tiên đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện kết nối thuận lợi với các địa phương trong tỉnh, cả nước và quốc tế. Nhiều công trình giao thông trọng điểm được hoàn thành kết nối hệ thống đường tỉnh lộ, huyện lộ, hình thành mạng lưới giao thông thông suốt từ trung tâm tỉnh lỵ đến tất cả các huyện, thị xã, thành phố và trung tâm các xã (5). Hiện nay, đang tập trung phối hợp tốt với các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi (đoạn qua địa bàn tỉnh), đường Đông Trường Sơn…
    Hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tiếp tục được quan tâm đầu tư với việc sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới hàng trăm công trình, trong đó, có nhiều hồ chứa nước lớn, kiên cố hóa trên 300 km kênh mương các loại và nhiều công trình thủy lợi hóa đất màu, thủy lợi nhỏ…
    Hệ thống thủy điện đã được rà soát quy hoạch đảm bảo an toàn và sử dụng hợp lý tài nguyên nước. Đến nay, các dự án thủy điện đã đi vào hoạt động góp phần bảo đảm an ninh năng lượng của quốc gia, phục vụ phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Mạng lưới điện cao thế, hạ thế được đầu tư mới và nâng cấp, bảo đảm cung cấp điện sinh hoạt đến 98% số xã và phục vụ sản xuất ở các khu, cụm công nghiệp. Hệ thống bưu chính, viễn thông được duy trì, phát triển. Mạng điện thoại di động được phủ sóng toàn tỉnh, thuê bao điện thoại, internet tăng nhanh. Đường truyền cáp quang nối đến 98% số xã với chất lượng ổn định, đảm bảo phục vụ nhu cầu thông tin liên lạc của người dân và công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở.
    Nhiều công trình có ý nghĩa lớn về văn hóa – xã hội được đầu tư xây dựng như: Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng, Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Quảng trường 24/3… Hệ thống các di tích văn hóa, lịch sử được quan tâm đầu tư trùng tu, tôn tạo. Hệ thống y tế cơ sở và các bệnh viện công tiếp tục được đầu tư nâng cấp, hoàn thiện. Nhiều hạng mục phục vụ giảng dạy, học tập tại Trường Đại học Quảng Nam và các trường cao đẳng, dạy nghề của tỉnh được nâng cấp, xây dựng mới. Các trường Trung học Phổ thông chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông và hệ thống trường lớp các cấp học phổ thông được đầu tư cơ bản đảm bảo yêu cầu. Các thiết chế văn hóa phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí của nhân dân phát triển đa dạng, đều khắp, đến nay, đã có 100% huyện, thị xã, thành phố có đủ các thiết chế văn hóa, 60% số xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, 80% số thôn, khối phố có nhà văn hóa đạt chuẩn. Lĩnh vực y tế cũng được quan tâm phát triển, đặc biệt trong việc xã hội hóa y tế, đã có 5 bệnh viện tư đi vào hoạt động, góp phần tích cực trong việc giảm tải ở các bệnh viện công.
    Hạ tầng các đô thị trung tâm huyện, nhất là các huyện mới chia tách Nông Sơn, Phú Ninh, Tây Giang, Nam Trà My đã được tập trung đầu tư xây dựng, nhờ đó tạo sự thay đổi rõ rệt diện mạo đô thị ở các địa phương.
    – Phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển giáo dục – đào tạo. Mạng lưới trường, lớp được quy hoạch, sắp xếp phù hợp với hệ thống giáo dục quốc dân và tình hình thực tế của địa phương; quy mô các ngành học, cấp học tiếp tục được mở rộng; chất lượng giáo dục không ngừng được nâng cao. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia đạt kết quả tốt, hiện có 411/780 trường đạt chuẩn, đạt tỷ lệ 52,5%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra. Kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở được duy trì tốt, đang triển khai thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học phổ thông. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông trúng tuyển vào đại học, cao đẳng và đạt giải học sinh giỏi quốc gia hàng năm đều tăng.
    Mạng lưới trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển nhanh về số lượng cũng như mã ngành đào tạo với 3 trường đại học, 6 trường cao đẳng công lập và tư thục, 45 cơ sở dạy nghề (tăng 3 cơ sở so với năm 2010). Từng bước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa loại hình đào tạo, nhất là đào tạo nghề, góp phần thiết thực trong việc đáp ứng yêu cầu lao động cho các doanh nghiệp, làng nghề, các khu, cụm công nghiệp.
    Việc thực hiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 và nhiều đề án, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đạt được một số kết quả quan trọng, trong đó thu hút được gần 100 bác sĩ bổ sung vào hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân, cử đi đào tạo sau đại học trên 240 cán bộ, công chức, viên chức… Đề án tuyển chọn 500 sinh viên để tạo nguồn cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đã tuyển chọn, đào tạo và bố trí việc làm 418 trường hợp, đang mở lớp thứ tư với 108 học viên.
    – Cải thiện môi trường đầu tư để huy động các nguồn lực đầu tư phát triển. Công tác quy hoạch được tập trung rà soát, điều chỉnh và bổ sung kịp thời. Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2 (2011 – 2015) đạt được kết quả đáng kể. Đến nay, tất cả các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố đều thực hiện cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân. Một số cơ chế khuyến khích đầu tư đã được ban hành và phát huy hiệu quả như cơ chế ưu tiên phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, các ngành giày da, may mặc và mây tre lá; thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách của Chính phủ tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa lãnh đạo với doanh nghiệp để giải quyết nhanh các thủ tục cấp phép, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy đầu tư.
    Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Quảng Nam các năm gần đây được duy trì ở nhóm khá và tốt trên bình diện chung cả nước (năm 2014 được xếp hạng thứ 14/63 tỉnh, thành phố). Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011 – 2015 đạt hơn 76.700 tỷ đồng, gấp gần hai lần so với giai đoạn 2006 – 2010, tăng bình quân 10,2%/năm; trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư hơn 5.100 tỷ đồng.
    4- Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra
    Các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trong đó, đã chú trọng việc huy động, lồng ghép các nguồn vốn để thực hiện các công trình hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao đời sống người dân tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Vai trò tích cực, chủ động của các tổ chức Đảng, đoàn thể chính trị – xã hội ở thôn, xã cùng với vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới được khơi dậy và phát huy. Đã xuất hiện hàng trăm mô hình phát triển sản xuất hàng hóa, xây dựng đời sống mới ở nông thôn có hiệu quả. Đến nay, bình quân tiêu chí đạt chuẩn của 204 xã là 9,6 tiêu chí/xã, tăng 4,78 tiêu chí/xã so với năm 2010 và dự kiến đến cuối năm 2015 có 56 xã (trên 27% số xã) đạt chuẩn nông thôn mới, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra.
    5- Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, tránh thiên tai
    Đã thực hiện tốt việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quản lý bảo vệ đất trồng lúa theo quy định. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, quản lý các dự án được giao đất, thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nhiều tiến bộ. Công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước được chú trọng, xử lý nghiêm việc khai thác lâm sản, khoáng sản trái phép.
    Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường đã được thực hiện rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị đã tạo sự chuyển biến tích cực của các cấp, các ngành và nhân dân về bảo vệ môi trường. Công tác quan trắc môi trường được tiến hành thường xuyên. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường được tăng cường. Đã tập trung triển khai thực hiện tốt các dự án về bảo vệ môi trường như: thu gom, xử lý rác thải nông thôn; xử lý nước thải, rác thải ở các đô thị, các khu, cụm công nghiệp; xử lý chất thải y tế… Nhiều mô hình về bảo vệ môi trường được nhân rộng trong nhân dân ở các địa phương như không sử dụng túi ni lông, phân loại rác thải từ nguồn, quản lý rác thải độc hại trong sản xuất nông nghiệp, phục hồi rừng ngập mặn…
    Các chương trình, dự án trồng rừng được đẩy mạnh, tỷ lệ che phủ rừng là 50%, đạt chỉ tiêu đề ra. Công tác nghiên cứu khoa học, dự báo khí tượng, thủy văn, hình thái thời tiết nguy hiểm đã được chú trọng, góp phần đáng kể trong công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh.
    6- Khoa học – công nghệ, văn hóa – xã hội có tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư được nâng lên
    Hoạt động khoa học – công nghệ đạt được những kết quả đáng kể. Nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mang lại kết quả cao như việc khảo nghiệm dẫn nhập các loại giống cây trồng, con vật nuôi, bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, cây dược liệu, các mô hình áp dụng tiến bộ khoa học phát triển nông thôn, miền núi. Các đề tài trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn đã góp phần tạo lập cơ sở khoa học và thực tiễn, giải pháp để định hướng phát triển, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc của tỉnh. Tiềm lực khoa học – công nghệ được tăng cường, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được tập hợp và tham gia tích cực vào các hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện nhiệm vụ khoa học – công nghệ; giám định xã hội ngày càng gắn với yêu cầu thực tiễn. Các chương trình hợp tác về khoa học – công nghệ trong phát triển kinh tế – xã hội, khuyến công, khuyến nông, hợp tác quốc tế… từng bước đi vào chiều sâu, có trọng tâm và phát huy hiệu quả.
    Sự nghiệp y tế không ngừng được nâng lên cả về số lượng, chất lượng dịch vụ và mạng lưới. Các tuyến y tế trên toàn tỉnh không ngừng được củng cố, kiện toàn và phát triển (6). Chỉ số sức khỏe của người dân được cải thiện đáng kể, tuổi thọ bình quân đạt 74,2 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 18,2% năm 2010 xuống 14% năm 2015. Y tế dự phòng được chú trọng nên không có dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi đã được triển khai thực hiện đầy đủ. Đến nay, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 78%. Công tác thanh tra y tế, quản lý hành nghề y dược tư nhân được chú trọng.
    Sự nghiệp văn hóa được quan tâm đúng mức. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được các cấp tập trung chỉ đạo triển khai tích cực, có chất lượng, trọng tâm là xây dựng gia đình, tộc họ, thôn, bản, cơ quan văn hóa đã tác động tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Việc thành lập Giải thưởng Văn học – Nghệ thuật Đất Quảng của tỉnh đã động viên, khích lệ hoạt động sáng tác, quảng bá tác phẩm của đội ngũ văn nghệ sĩ. Hoạt động văn nghệ quần chúng ở cơ sở diễn ra sôi nổi, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia. Phong trào thể dục – thể thao quần chúng được đẩy mạnh, thể thao thành tích cao có nhiều tiến bộ. Công tác trùng tu, tôn tạo, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể các dân tộc trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng và đạt được kết quả. Việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đã được các cấp, các ngành, địa phương triển khai thực hiện tốt.
    Công tác thông tin – truyền thông, báo chí được tăng cường. Việc quy hoạch mạng lưới báo chí, xuất bản của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được thực hiện nghiêm túc, phù hợp với định hướng của Trung ương và tình hình thực tế của địa phương. Các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh được đầu tư phát triển về nhân lực và trang thiết bị nên chất lượng nội dung thông tin được nâng cao, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao dân trí, định hướng dư luận xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.
    Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo được triển khai quyết liệt, đồng bộ. Các chương trình, chính sách giảm nghèo của Chính phủ được vận dụng và chỉ đạo quyết liệt, nhất là đối với các huyện 30a (Phước Sơn, Nam Trà My và Tây Giang). Ngoài ra, tỉnh đã ban hành chính sách khuyến khích thoát nghèo bền vững và được triển khai thực hiện có hiệu quả. Cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội ở các huyện, xã, thôn nghèo được quan tâm đầu tư. Người nghèo đã có nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, từ 24,2% năm 2010 còn 8,9% năm 2015, bình quân giảm hơn 3%/năm, đạt chỉ tiêu đề ra.
    Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động. Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với thu hút đầu tư, giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất để tạo nhiều việc làm mới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề toàn tỉnh đạt khoảng 45%. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 40,7% năm 2010 đã tăng lên 49,9%, bình quân mỗi năm chuyển dịch hơn 1,4% lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong 5 năm qua, đã giải quyết việc làm mới cho hơn 200.000 lượt lao động, đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội XX. Công tác bảo hiểm xã hội được tăng cường, đạt kết quả tốt.
    Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo các gia đình chính sách được chú trọng. Đã hoàn thành giai đoạn 1 về hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở đối với người có công (9.500 nhà); thực hiện tốt công tác lập hồ sơ, thủ tục đề nghị Trung ương phong, truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng (7), công tác chăm sóc Mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh, người có công cách mạng và giải quyết các hồ sơ đối tượng hưởng chính sách còn tồn đọng. Đời sống đại bộ phận gia đình chính sách đã được cải thiện đáng kể. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, chỉnh trang nghĩa trang và nhà bia ghi tên liệt sĩ tiếp tục được đầu tư.
    7- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân ngày càng vững chắc; công tác đối ngoại được tăng cường
    Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thường xuyên và được tăng cường vững chắc. Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị – tinh thần, “thế trận lòng dân” được chú trọng xây dựng. Lực lượng vũ trang địa phương được xây dựng vững mạnh toàn diện, sẵn sàng đối phó thắng lợi với các các tình huống xảy ra; chủ động trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho các đối tượng được triển khai đồng bộ, hiệu quả, thiết thực. Giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu, bảo đảm chất lượng; tỷ lệ đảng viên trong thanh niên nhập ngũ đạt và vượt chỉ tiêu. Chất lượng huấn luyện, diễn tập, hội thi, hội thao được nâng lên rõ rệt; hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện, diễn tập chiến đấu trị an cấp xã; tổ chức tốt các cuộc diễn tập thực nghiệm với quy mô lớn để Trung ương rút kinh nghiệm chỉ đạo trên phạm vi toàn quốc.
    Thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh chính trị nội bộ, an ninh tôn giáo, an ninh nông thôn, an ninh văn hóa – tư tưởng, an ninh kinh tế; chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, điều tra xử lý kịp thời và nghiêm minh các loại tội phạm, giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế – xã hội; tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được đẩy mạnh và đổi mới, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu và đạt hiệu quả thiết thực. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh và giữa quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế – xã hội được coi trọng.
    Công tác đối ngoại phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước. Mối quan hệ đặc biệt với tỉnh Sê Kông (Lào) được giữ vững và ngày càng sâu sắc, đồng thời, quan hệ hợp tác với các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan được mở rộng nhằm mục tiêu hình thành hành lang kinh tế Đông – Tây qua cửa khẩu Nam Giang – Đắk Tà Oọc. Tăng cường và thiết lập quan hệ hợp tác với nhiều địa phương nước ngoài. Công tác đối ngoại nhân dân được tăng cường, duy trì tốt quan hệ với các tổ chức hữu nghị nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài nhằm tranh thủ các nguồn viện trợ, sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Công tác quản lý nhà nước về biên giới, lãnh thổ quốc gia, đoàn ra, đoàn vào được thực hiện tốt. Công tác thông tin đối ngoại, giao lưu văn hóa với nước ngoài được chú trọng.
    8- Công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách tư pháp đạt được nhiều kết quả
    Tỉnh ủy đã thành lập Ban Nội chính Tỉnh ủy để thực hiện công tác tham mưu và thực hiện một số nhiệm vụ công tác nội chính của Đảng. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tập trung triển khai và đạt được kết quả theo tinh thần Chỉ thị số 41-CT/TU của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn tỉnh; nhận thức về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có chuyển biến tích cực, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập và kiểm soát việc kê khai tài sản nghiêm túc, đúng các quy định của Đảng, Nhà nước. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách, mua sắm tài sản công, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất, các khoản đóng góp của nhân dân, các chế độ, định mức theo tiêu chuẩn… Công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan đến tham nhũng được tăng cường, góp phần ngăn chặn, hạn chế tham nhũng, kịp thời xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật.
    Công tác thanh tra được tăng cường. Các sai phạm được phát hiện qua thanh tra được xử lý nghiêm minh; đồng thời, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân trên địa bàn tỉnh có chuyển biến tích cực; kịp thời xử lý, ngăn chặn các trường hợp khiếu kiện đông người.
    Triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 và Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó, có gắn với công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ đảng và giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện đã giải quyết được tình trạng tồn đọng án ở Tòa án nhân dân tỉnh. Nguyên tắc độc lập trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và yêu cầu về tăng cường tranh tụng tại phiên tòa đạt kết quả tích cực, không để xảy ra oan sai, không bỏ lọt tội phạm. Việc thực hiện chính sách đối với cán bộ tư pháp, kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp theo đúng quy định, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Việc xã hội hóa hoạt động công chứng đã có thành công bước đầu. Công tác thi hành án dân sự có nhiều cố gắng và đạt được kết quả.
    9- Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp được nâng lên, công tác cải cách hành chính đạt được một số kết quả tích cực
    Bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở không ngừng được củng cố, kiện toàn, nhờ đó đã thực hiện đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Trung ương, đồng thời, quyết định và triển khai có hiệu quả nhiều chính sách theo thẩm quyền. Hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân các cấp đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm người đại biểu của nhân dân; công tác tiếp công dân định kỳ, tiếp xúc cử tri, giải quyết những đề xuất, kiến nghị của cử tri được tăng cường và đổi mới. Thông qua các kỳ họp và các cuộc kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân theo luật định đã góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh.
    Cải cách hành chính được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, nhất là việc cải cách thủ tục hành chính, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Kỷ cương, kỷ luật hành chính, tinh thần trách nhiệm trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức, viên chức có chuyển biến tích cực ở tất cả các cơ quan chính quyền địa phương từ tỉnh đến cơ sở, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của tỉnh. Việc thực hiện cơ chế một cửa và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc ở các cơ quan, đơn vị đem lại kết quả thiết thực, rút ngắn thời gian xử lý công việc, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp và giao dịch của các tổ chức, cá nhân. Bước đầu triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm; tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị hành chính sự nghiệp.
    10- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội được củng cố về tổ chức, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động
    Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt trong hệ thống cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. Các chủ trương, chính sách được ban hành đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo tinh thần Quy chế dân chủ ở cơ sở được đa số các cấp ủy, chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện tốt.
    Lực lượng công nhân đang lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động có chuyển biến tích cực, nhất là trong các doanh nghiệp lớn. Lực lượng nông dân ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng được tăng cường, được tạo điều kiện thuận lợi trong sáng tạo, nghiên cứu khoa học. Đội ngũ doanh nhân phát triển mạnh về số lượng, trình độ quản lý, kinh doanh được nâng lên. Thế hệ trẻ tiếp tục phát huy tốt truyền thống cha anh, đi đầu, xung kích trên nhiều lĩnh vực. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được phát huy. Lực lượng cựu chiến binh tiếp tục phát huy tốt truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tham gia tích cực trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền và phát triển kinh tế – xã hội.
    Các cấp, các ngành đã quan tâm và thực hiện đầy đủ các chính sách về dân tộc, tôn giáo. Đồng bào các dân tộc thiểu số luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền, tích cực lao động, học tập nhằm nâng cao dân trí, cải thiện điều kiện sống; giữ gìn bản sắc văn hóa, tham gia tích cực trong việc nhận quản lý, bảo vệ rừng và từng bước hợp tác tốt với các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế. Đồng bào có đạo trên địa bàn tỉnh chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần tích cực trong việc xây dựng đạo đức xã hội.
    Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội của tỉnh thường xuyên được kiện toàn về tổ chức; đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời, đổi mới hoạt động hướng về cơ sở, lấy địa bàn khu dân cư làm cơ sở hoạt động theo tinh thần Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Bên cạnh đó, tích cực tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội; vận động thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước, cũng như các phong trào, các cuộc vận động do hội, đoàn thể phát động; bước đầu triển khai và thực hiện Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị (khóa XI) về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân nhân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
    11- Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, trọng tâm là tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt được những kết quả quan trọng
    Nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Đã tạo chuyển biến trong nhận thức về công tác xây dựng Đảng trong cán bộ, đảng viên về sự cấp bách phải chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Việc tổ chức thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội từ tỉnh đến cơ sở đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với các biện pháp, cách làm cụ thể, sát thực tế, hiệu quả.
    Qua việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã giải quyết được nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc trong Đảng và nhân dân; qua đó, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị để lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị; đồng thời, giáo dục cán bộ, đảng viên, hội, đoàn viên thường xuyên có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Nhờ vậy, đã từng bước siết lại kỷ luật, kỷ cương, góp phần ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Đã có nhiều tổ chức cơ sở đảng, đoàn thể từ yếu kém vươn lên trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã chú trọng nêu cao tinh thần trách nhiệm, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
    – Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được coi trọng. Đã tổ chức nghiêm túc việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương; tham gia tổng kết lý luận thực tiễn qua 30 năm đổi mới và kịp thời sơ kết, tổng kết 5 năm, 10 năm thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và Tỉnh ủy. Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng được các cấp ủy quan tâm, kịp thời xử lý những vấn đề nổi cộm, ổn định an ninh tư tưởng (8). Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được thực hiện tốt (9). Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử đấu tranh cách mạng ngành, địa phương và giáo dục truyền thống cách mạng được các cấp ủy thực hiện đạt kết quả. Chất lượng truyền đạt và học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có chuyển biến tốt. Công tác lãnh đạo, định hướng hoạt động của báo chí được quan tâm, chấn chỉnh kịp thời các thông tin phản ánh sai lệch, góp phần định hướng tư tưởng trong xã hội.
    – Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo, thực hiện. Tỉnh ủy đã ban hành lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 16/4/2013 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh đã phát huy chức năng, vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật Đảng được tập trung chỉ đạo, kiểm tra; qua đó, kịp thời ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống… Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh bình quân trong nhiệm kỳ đạt 77%, tăng 2% so với Nghị quyết. Số đảng viên được kết nạp hằng năm tăng cả về số lượng và chất lượng, cả nhiệm kỳ, kết nạp được 17.828 đảng viên, vượt 27,34% so với Nghị quyết Đại hội XX, góp phần xóa thôn trắng đảng viên, tăng tỷ lệ đảng viên giữ vị trí chủ chốt ở thôn, khối phố.
    Công tác cán bộ được xác định là một đột phá trong công tác xây dựng Đảng. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về công tác cán bộ giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020 và các đề án, chính sách cụ thể để triển khai thực hiện. Các khâu trong công tác cán bộ được thực hiện nền nếp. Công tác quy hoạch cán bộ ở cả 3 cấp cơ bản bảo đảm tỷ lệ, cơ cấu, chất lượng, có tính khả thi là tiền đề quan trọng để chuẩn bị nhân sự của hệ thống chính trị cho nhiệm kỳ 2015 – 2020. Đã chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp; chính sách về đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số theo Nghị quyết 13 của Tỉnh ủy; tuyển chọn sinh viên, đào tạo lý luận chính trị để cung cấp nguồn cán bộ cấp cơ sở và khu vực miền núi theo Đề án 500… Nhờ đó, chất lượng đội ngũ cán bộ ở cả 3 cấp tăng lên (10), giúp cấp ủy đảng chủ động trong công tác bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, khắc phục cơ bản tình trạng hụt hẫng cán bộ trên bình diện chung của tỉnh. Chế độ, chính sách đối với cán bộ nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ thôi việc được tổ chức thực hiện tốt, góp phần quan trọng giải quyết đầu ra cho cán bộ, công chức cơ sở. Hoàn thành việc xét công nhận người hoạt động cách mạng trước tháng 8/1945 được bảo đảm đúng trình tự, thủ tục. Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý và chủ trương tăng thêm chức phó bí thư, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện để luân chuyển và đào tạo cán bộ.
    Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, thực hiện. Việc thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị được tổ chức thực hiện tốt, phục vụ kịp thời cho công tác cán bộ và phát triển đảng viên.
    – Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường. Toàn Đảng bộ đã có sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm và tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đúng quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Các cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát đúng Điều lệ Đảng và quy định của Trung ương, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và đạt được kết quả quan trọng (11). Số lượng, chất lượng các cuộc kiểm tra được nâng lên đáng kể. Bên cạnh việc tập trung cho nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm, ủy ban kiểm tra các cấp đã thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ “kiểm tra chấp hành”, mở rộng công tác giám sát, gắn kiểm tra, giám sát tập thể với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị. Hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã tác động tích cực trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phòng ngừa, hạn chế sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Qua kiểm tra, giám sát đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tồn đọng nhiều năm ở cơ sở, ổn định tình hình, thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị; góp phần giáo dục, ngăn ngừa hạn chế, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên; tạo được niềm tin của tổ chức đảng, đảng viên, nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
    Công tác dân vận chuyển biến tích cực và có đổi mới. Các cấp ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị làm tốt việc triển khai, quán triệt, xây dựng chương trình hành động, thực hiện kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận (12) và Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị (khóa XI) về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội thực hiện giám sát và phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đã tăng cường lãnh đạo công tác đối thoại với nhân dân và thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở, đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”, nhất là trong xây dựng nông thôn mới… Công tác dân vận của các cấp chính quyền, trong các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang đã có nhiều chuyển biến tích cực; việc chỉ đạo, điều hành, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước được triển khai đồng bộ, có hiệu quả, từng bước đổi mới theo hướng gần dân, sát dân, hướng về cơ sở. Chính quyền các cấp đã thực hiện tốt việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về công tác dân vận, xây dựng quy chế phối hợp về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác dân vận.
    Các cấp ủy đảng đã chỉ đạo ban dân vận cùng cấp tích cực theo dõi, định hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh và làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, góp phần thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn tỉnh.
    Nhìn chung, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh nỗ lực vượt qua khó khăn, tranh thủ thời cơ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, đồng thời, phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và xã hội, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng – an ninh của tỉnh, từ một tỉnh khó khăn vươn lên trở thành địa phương phát triển khá ở khu vực miền Trung, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, diện mạo nông thôn, đô thị có đổi mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giữ được ở mức khá cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thu ngân sách trên địa bàn vào nhóm các tỉnh khá của cả nước (năm 2014 xếp thứ 15/63 tỉnh, thành phố). Một số ngành công nghiệp phát triển đạt được quy mô lớn, giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng tăng. Các nhiệm vụ đột phá đạt được những kết quả quan trọng, nhất là trong xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, tạo thế và lực để phát triển kinh tế – xã hội mạnh hơn trong giai đoạn tới.
    Giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, hoàn thành sớm việc phổ cập giáo dục mầm non dưới 5 tuổi. Thiết chế văn hóa được tăng cường và phát huy hiệu quả. GRDP bình quân đầu người cao hơn 2,4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm. Đã hạn chế được tình trạng phá rừng, khai thác khoáng sản trái phép; tích cực triển khai các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu. Xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững đạt được kết quả quan trọng.
    Ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị về phòng, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực. Công tác thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, xử lý kịp thời các sai phạm được phát hiện qua thanh tra. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đảm bảo kịp thời, đúng pháp luật, ngăn chặn có hiệu quả các vụ khiếu kiện đông người. Công tác cải cách tư pháp đạt được kết quả tích cực.
    Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Việc tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt được kết quả tích cực. Dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được phát huy. Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội không ngừng được củng cố. Tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên.
    II- NHỮNG HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM
    1- Trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
    Kinh tế giữ được tốc độ tăng trưởng khá, nhưng có một số nội dung chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XX đề ra (13); chưa khai thác và phát huy hết tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Chất lượng tăng trưởng chậm được cải thiện, năng suất các yếu tố tổng hợp, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp tuy đạt khá nhưng giá trị gia tăng thấp. Chưa tạo được bước đột phá về phát triển du lịch, dịch vụ, kết nối ngành du lịch với các ngành kinh tế – xã hội khác và các tỉnh, thành phố lân cận. Năng suất cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Môi trường đầu tư tuy có cải thiện nhưng chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư ngoài nước. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
    Chất lượng giáo dục miền núi nhìn chung còn thấp. Đào tạo nghề chưa gắn kết được với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp. Tiềm lực khoa học và công nghệ chưa được quan tâm đầu tư tương xứng và đồng bộ để phục vụ phát triển; chưa chú trọng đầu tư xây dựng các cơ sở nghiên cứu – triển khai. Công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, cao đẳng còn hạn chế. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa đô thị với nông thôn, đồng bằng với miền núi, hải đảo và giữa các tầng lớp nhân dân trong tỉnh chưa được thu hẹp. Công tác xã hội hóa trên lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản, di tích chưa được quan tâm đúng mức. Văn học, nghệ thuật tuy có phát triển về số lượng nhưng chưa có những tác phẩm nổi bật, có giá trị cao.
    Chất lượng dịch vụ y tế tuy có được nâng lên nhưng chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân. Hoạt động của tuyến y tế cơ sở còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao so với bình quân của cả nước, chất lượng giảm nghèo chưa bền vững (14). Nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, nhất là ở các huyện miền núi phía tây của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
    2- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại
    Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ ở một số địa phương chưa đồng bộ, toàn diện. An ninh trong tôn giáo, an ninh nông thôn trên một số địa bàn còn tiềm ẩn yếu tố có thể gây mất ổn định về an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là tình trạng khiếu kiện đông người liên quan đến thực hiện chính sách đất đai, bồi thường, giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường… Hoạt động của tội phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi; tỷ lệ thanh niên, thiếu niên vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Công tác đối ngoại chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
    3- Trong công tác quản lý nhà nước, phòng, chống tham nhũng, lãng phí và cải cách tư pháp
    Một số nơi để xảy ra sai phạm trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường, nhất là quản lý, bảo vệ rừng, khoáng sản, đất đai ở một số nơi còn lỏng lẻo, gây bức xúc trong xã hội. Công tác quản lý quy hoạch, đất đai, xây dựng và quản lý đô thị còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm. Công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với một số dự án đầu tư chưa tốt. Cải cách thủ tục hành chính gắn với tinh giản bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa đạt hiệu quả mong muốn. Kỷ cương hành chính có lúc, có nơi chưa được thực thi nghiêm túc. Các giải pháp phòng, chống tham nhũng chưa được thực hiện đồng bộ; vẫn còn tình trạng tham nhũng vặt và lãng phí ở một số địa phương, đơn vị. Một số vụ việc, vụ án khiếu kiện phức tạp chưa được quan tâm chỉ đạo quyết liệt, để kéo dài. Hoạt động điều tra, tố tụng còn có sai sót.
    4- Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội
    Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể ở một số nơi chưa mạnh, còn nặng về hành chính. Một bộ phận nhân dân ít quan tâm đến các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động, tạo mối quan hệ, liên kết giữa đội ngũ doanh nhân, trí thức với nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn; giữa trí thức với doanh nhân trong đổi mới công nghệ quản lý, sản xuất, hội nhập quốc tế vẫn còn hạn chế. Quan hệ phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp.
    5- Trong công tác xây dựng Đảng
    Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, công tác cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Phương pháp công tác tư tưởng chưa linh hoạt, nhất là trong việc định hướng thông tin và dư luận xã hội. Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) ở một số nơi chưa quyết liệt, còn hình thức, vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, không trung thực trong tự phê bình và phê bình, chưa thẳng thắn trong nhìn nhận khuyết điểm và sửa chữa khuyết điểm.
    Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở một số địa phương, đơn vị thiếu tính khả thi, không đảm bảo cơ cấu tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Một số nơi hụt hẫng về đội ngũ cán bộ chủ chốt. Cán bộ cấp xã, nhất là các xã thuộc huyện miền núi tỷ lệ đạt chuẩn còn thấp. Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ ở một số nơi còn hạn chế, chuyển biến chậm, chưa được đổi mới; nội dung sinh hoạt còn nặng về công tác chuyên môn, ít tập trung cho công tác xây dựng Đảng. Công tác kết nạp đảng viên ở địa bàn dân cư, miền núi và trong các doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cơ quan, đơn vị khối chính quyền chưa được quan tâm đúng mức.
    Một số nơi chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận, thiếu phương pháp vận động, thuyết phục và tổ chức để nhân dân tự giác tham gia các phong trào cách mạng. Một số cấp ủy chưa chủ động nắm bắt tình hình khi có dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên để tiến hành kiểm tra, kết luận và xử lý. Việc kiểm tra tổ chức đảng gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền chưa thường xuyên. Thực hiện quy trình, nguyên tắc kiểm tra có nơi thiếu nghiêm túc, chưa bảo đảm quy định.
    III- NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
    1- Nguyên nhân
    1.1- Nguyên nhân đạt được những thành tựu
    Những thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó, quan trọng nhất là các cấp ủy đảng, chính quyền trong tỉnh đã quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo các chủ trương của Trung ương vào tình hình thực tế của địa phương. Đồng thời, trong lãnh đạo, điều hành đã tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ kịp thời của Trung ương Đảng, Nhà nước, Chính phủ và của các bộ, ban, ngành Trung ương.
    Đã giữ vững truyền thống đoàn kết, phát huy bản sắc văn hóa, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân để chung sức phấn đấu xây dựng quê hương; năng động, tích cực phối hợp với các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung để phát triển các ngành có lợi thế và phát triển kết cấu hạ tầng.
    Trong chỉ đạo, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể các cấp đã có chương trình, kế hoạch cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; quyết liệt tổ chức, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện.
    Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp đã phát huy tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi với làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhân dân và đối với công việc được giao.
    1.2- Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm
    Những yếu kém, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan, đó là, trong nhiệm kỳ qua, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; những diễn biến phức tạp do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; quy mô nền kinh tế của tỉnh còn nhỏ, tiềm lực hạn chế; kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ; 6 huyện ở vùng phía tây của tỉnh còn nhiều khó khăn do địa hình phức tạp, hạ tầng yếu kém. Bên cạnh đó, thời tiết không thuận lợi, thiên tai bão, lũ, hạn hán… ảnh hưởng, dẫn đến không đạt được một số mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đề ra.
    Tuy nhiên, những yếu kém, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan:
    – Công tác đánh giá dự báo tình hình nặng phần lạc quan, chưa sát đúng nên một số chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX, nhiệm kỳ 2010 – 2015 là khá cao, không đạt được trong bối cảnh khó khăn chung của thế giới và trong nước vừa qua. Việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương, từng ngành, lĩnh vực nói chung còn chậm, chất lượng thấp. Đầu tư công còn dàn trải, các nguồn lực huy động được dù lớn nhưng không thể đáp ứng nhu cầu đầu tư của tất cả các vùng, miền, ngành, lĩnh vực. Chưa có những giải pháp mang tính đột phá để huy động tối đa các nguồn lực trong nhân dân. Chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài chưa phát huy hiệu quả; đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập.
    – Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở còn một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, thiếu tập trung, kiên quyết, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Năng lực công tác, trình độ chuyên môn, quản lý của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật hiệu quả thấp. Một số địa phương buông lỏng quản lý nhà nước, nhất là ở cấp chính quyền cơ sở. Việc triển khai xây dựng và thực hiện đề án vị trí việc làm và cơ cấu chức danh công chức, viên chức chưa mang lại hiệu quả trên thực tế.
    – Tư duy lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, chính trị ở đa số cấp ủy không theo kịp với sự phát triển của thông tin điện tử, nhất là các mạng xã hội; một số cấp ủy, địa phương, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ về việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chưa coi trọng việc chỉ đạo, hướng dẫn và đánh giá kết quả việc làm theo. Trong công tác cán bộ, một số nơi vẫn còn tình trạng cục bộ và chưa mạnh dạn bố trí, sử dụng cán bộ trẻ. Nền tảng học vấn của đa số cán bộ cấp cơ sở người dân tộc thiểu số thấp nên khó đào tạo đạt chuẩn và chậm thích ứng với các yêu cầu, nhiệm vụ.
    – Ở địa bàn dân cư, một số nơi chưa bố trí được đồng chí bí thư chi bộ thôn, khối phố tâm huyết, am hiểu về công tác đảng; ở khối các cơ quan, đồng chí bí thư hoặc các đồng chí trong chi ủy ở một số đơn vị chủ yếu quan tâm thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, thông thường tham gia thực hiện công tác đảng qua loa, chiếu lệ; đảng ủy cấp trên thiếu kiểm tra, nhắc nhở nên chất lượng sinh hoạt ở một số tổ chức cơ sở đảng hạn chế.
    – Phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chưa theo kịp với sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội của nhân dân. Trong nhận thức của lãnh đạo nhiều cơ quan khối chính quyền, vẫn còn tình trạng xem công tác dân vận là nhiệm vụ của các tổ chức đoàn thể, việc phối hợp rất hạn chế. Một số ủy ban kiểm tra các cấp chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, chưa mạnh dạn tham mưu, kiểm tra, xử lý kỷ luật đảng viên theo thẩm quyền; cán bộ làm công tác kiểm tra ở một số nơi còn yếu về năng lực, phương pháp công tác.
    2- Những bài học kinh nghiệm
    Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện Nghị quyết Đại hội XX của Đảng bộ tỉnh, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
    Thứ nhất, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất cả trong tư tưởng và hành động trong toàn Đảng bộ, quyết tâm và kiên định thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã được Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh đề ra.
    Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở với phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, năng động, sáng tạo và tâm huyết với sự nghiệp phát triển của tỉnh, của đất nước và của nhân dân.
    Thứ ba, phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, dựa vào dân, tin tưởng ở nhân dân, tạo được sự đồng thuận và quyết tâm của toàn xã hội phấn đấu thực hiện các mục tiêu phát triển của tỉnh. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nắm bắt dư luận xã hội; giải quyết kịp thời băn khoăn, bức xúc, kiến nghị, tố cáo của nhân dân ngay tại cơ sở, không để kéo dài, phức tạp, trở thành điểm nóng; ổn định an ninh chính trị là tiền đề cho phát triển kinh tế.
    Thứ tư, phải xác định và phát huy các lợi thế so sánh của tỉnh; coi trọng phát triển bền vững; phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa phải gắn liền với bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, thực hiện công bằng xã hội; giữ vững an ninh – chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển.
    Thứ năm, tiếp thu và vận dụng có hiệu quả sự chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương, Chính phủ và các bộ, ban, ngành vào điều kiện cụ thể của địa phương. Tranh thủ sự hỗ trợ của bạn bè trong nước và quốc tế, tạo mối liên kết phát triển với các địa phương trong cả nước, nhất là các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
    Thứ sáu, trong chỉ đạo, điều hành phải tập trung, kiên quyết, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Phải có những quyết sách và thực tế trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ đột phá, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ để tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Mạnh dạn phân cấp quản lý, phân cấp đi đôi với xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn trong quản lý, điều hành. Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra, giám sát; phát hiện, uốn nắn và xử lý kịp thời các sai phạm.
    PHẦN THỨ HAI
    PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUẢNG NAM ĐẾN NĂM 2020
    I- DỰ BÁO TÌNH HÌNH
    Trong thời gian tới, nền kinh tế Việt Nam sẽ tham gia đầy đủ các hiệp định đã cam kết, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với thời kỳ trước. Điều đó sẽ tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội, nhưng cũng mang đến nhiều khó khăn, thách thức, nhất là cạnh tranh về kinh tế, thương mại. Bên cạnh đó, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng đang diễn biến ngày càng phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại; bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn… sẽ tiếp tục ảnh hưởng không thuận lợi đến quá trình phát triển nhanh và bền vững của tỉnh Quảng Nam.
    Đối với tỉnh ta, những thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ qua trên các lĩnh vực, nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội trọng yếu đã và đang hoàn thiện đưa vào khai thác; nguồn nhân lực dồi dào; mối quan hệ hợp tác với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung sẽ được phát huy; tiềm năng về kinh tế biển, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ còn rất lớn là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tỉnh trong thời gian đến.
    Trong điều kiện nền kinh tế của tỉnh quy mô còn nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp, gặp nhiều khó khăn trong điều kiện hội nhập quốc tế; phải thường xuyên đối phó với thiên tai, bão, lũ, biến đổi khí hậu; nhiều vấn đề căn bản về văn hóa, xã hội cần phải tập trung giải quyết như chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động; chênh lệch khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn, miền núi với đồng bằng, đô thị; trình độ, năng lực của cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới… đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Quảng Nam phải tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, điều hành và hoạt động của hệ thống chính trị… cũng như phải đề ra những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, tập trung chỉ đạo quyết liệt mới có thể đưa Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững trong thời gian đến.
    II- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM GIAI ĐOẠN 2015 – 2020
    1- Mục tiêu tổng quát
    Tạo bước chuyển mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; phát huy dân chủ, truyền thống cách mạng, bản sắc văn hóa; huy động mọi nguồn lực và tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư để phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm quốc phòng – an ninh; chú trọng công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đến năm 2020, Quảng Nam trở thành tỉnh giàu mạnh trong khu vực duyên hải Miền Trung.
    2- Các chỉ tiêu chủ yếu
    2.1- Các chỉ tiêu phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân (theo phương pháp tính mới) từ 10 – 10,5%/năm. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 75 triệu đồng (tương đương 3.400 USD). Thu nhập bình quân đầu người vào năm 2020 đạt trên 45 triệu đồng (tương đương 2000 USD). Tỷ trọng các ngành trong GRDP: nông nghiệp khoảng 10%, công nghiệp – xây dựng khoảng 46%, dịch vụ khoảng 44%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 16%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân trên 15%/năm. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm trên 30% GRDP.
    2.2- Các chỉ tiêu về xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm khoảng 2 – 2,5%/năm. Đến năm 2020, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 10%. Tỷ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt 95%, trung học phổ thông đạt 75%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65%, qua đào tạo nghề đạt 55%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp dưới 40%. Giải quyết việc làm mới tăng thêm 5 năm đạt 75.000 lao động. Phấn đấu đạt 9 bác sĩ và 31,5 giường bệnh/vạn dân. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi. Có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 32%.
    2.3- Các chỉ tiêu về môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng đạt 52%. Tất cả các khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Xử lý 90% chất thải rắn (kể cả thông thường và nguy hại), 95% chất thải y tế đạt tiêu chuẩn môi trường. 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh.
    2.4- Các chỉ tiêu về xây dựng Đảng, quốc phòng – an ninh: Hàng năm, kết nạp 2.800 đảng viên trở lên. Phấn đấu đến năm 2020, 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở được đào tạo đạt chuẩn. Trên 75% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh. Tất cả các xã, phường, thị trấn đạt chuẩn vững mạnh về quốc phòng – an ninh, trong đó, trên 30% đạt chuẩn vững mạnh toàn diện.
    3- Những nhiệm vụ trọng tâm
    3.1- Tiếp tục thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ đột phá gắn với cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp. Chú trọng khai thác thế mạnh của tỉnh về du lịch.
    3.2- Tập trung phát triển kinh tế – xã hội miền núi và tổ chức thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững. Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai.
    3.3- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Tăng cường đầu tư xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống. Thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo chuyển biến mạnh mẽ giáo dục miền núi. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
    3.4- Tiếp tục xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; duy trì và phát triển mối quan hệ đặc biệt với tỉnh Sê Kông (Lào).
    3.5- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính. Kiên trì, quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện tốt công tác cải cách tư pháp. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
    3.6- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội trong việc tập hợp và vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các phong trào hành động cách mạng ở các cấp; giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, luật pháp.
    3.7- Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng làm cho Đảng bộ thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong cấp ủy, tổ chức đảng. Tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với hệ thống chính trị.
    III- CÁC NHÓM GIẢI PHÁP
    1- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đột phá gắn với cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của tỉnh
    Trong những năm đến, quyết tâm đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế và đầu tư công để nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Chú trọng khuyến khích thu hút đầu tư các dự án có công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, tạo giá trị gia tăng cao, áp dụng các phương pháp quản lý tổng hợp để tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) đóng góp ngày càng lớn hơn vào tăng trưởng chung nền kinh tế của tỉnh.
    Cơ cấu lại kinh tế và đầu tư công theo hướng tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ đột phá, ưu tiên cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, miền núi. Giảm dần tỷ trọng đầu tư của Nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội. Mở rộng xã hội hóa đầu tư, đẩy mạnh áp dụng mô hình hợp tác công – tư (PPP). Khuyến khích các doanh nghiệp của tỉnh tăng tỷ trọng tích lũy đầu tư bằng các cơ chế, chính sách thuế và thu ngân sách phù hợp. Trong những năm đến, ngân sách nhà nước tập trung đầu tư hoàn thiện hạ tầng giao thông kết nối giữa các vùng của tỉnh và với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và liên vùng duyên hải Nam Trung Bộ – Tây Nguyên. Đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm chuyển tiếp của tỉnh, phối hợp với Trung ương đầu tư nâng cấp, mở rộng quốc lộ 14D và Khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang để đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa với các tỉnh của Lào và Thái Lan. Chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, hạ tầng đô thị, hạ tầng khu vực nông thôn và miền núi; xúc tiến kêu gọi đầu tư nâng cấp cảng Kỳ Hà, Cảng hàng không quốc tế Chu Lai thành trung tâm trung chuyển hàng hóa của khu vực.
    Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng phát triển công nghiệp công nghệ cao, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đẩy mạnh công nghiệp hóa bằng việc tăng cường đầu tư vào hạ tầng các khu, cụm công nghiệp và làng nghề, trong đó, trọng tâm phát triển là Khu kinh tế mở Chu Lai gắn với hiệu quả sử dụng hạ tầng và sử dụng đất. Có chính sách phát triển công nghiệp phụ trợ cơ khí ô tô, dệt may, da giày; thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các hiệp hội ngành nghề trong các lĩnh vực để hợp tác, hỗ trợ phát triển sản xuất.
    Tiếp tục phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, đưa Quảng Nam trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước. Gắn phát triển du lịch của tỉnh với du lịch của Vùng theo hướng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp để bảo đảm sản phẩm du lịch có thương hiệu và tính cạnh tranh. Mở rộng, nâng cấp hạ tầng các khu du lịch đã có, nhất là ở khu vực Hội An, khu vực ven biển; đồng thời, mở rộng không gian du lịch về phía nam và phía tây của tỉnh. Nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm phục vụ du lịch. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông; xây dựng các trung tâm thương mại, siêu thị lớn tại các khu vực đô thị và hệ thống chợ ở khu vực nông thôn, miền núi để tạo điều kiện lưu thông, tiêu thụ hàng hóa.
    Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Chuyển đổi mô hình và phương thức sản xuất nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành, giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi và thủy, hải sản. Có chính sách khuyến khích tích tụ ruộng đất, kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp để sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng nhanh trong lĩnh vực chăn nuôi, thuỷ sản và lâm nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; thúc đẩy phát triển các làng nghề truyền thống. Tăng cường công tác thú y, bảo đảm an toàn dịch bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiếp tục hỗ trợ đóng mới, cải hoán tàu thuyền để nâng cao năng lực, hiệu quả và an toàn trong khai thác thủy sản xa bờ, gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Đầu tư phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá. Rà soát quy hoạch, thu hút đầu tư các vùng nuôi trồng tập trung ổn định lâu dài và công nghiệp chế biến thủy sản.
    Thực hiện đồng bộ các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng. Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, có chính sách ưu tiên phát triển đào tạo công nhân kỹ thuật và trung cấp để thay đổi cơ cấu lao động hiện nay; đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo theo hướng liên kết có hiệu quả giữa các trường đào tạo với các doanh nghiệp trong đào tạo và sử dụng lao động sau đào tạo, tăng cường đào tạo kỹ năng chuyên sâu, giảm tải thời gian học lý thuyết, tăng thời gian thực hành cho học viên. Tăng cường đầu tư nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, chú trọng xây dựng mới và củng cố các phòng thí nghiệm, xưởng thực nghiệm. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tập trung ưu tiên đặc biệt đào tạo nguồn nhân lực cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để giảm nghèo nhanh và bền vững.
    Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo môi trường đầu tư lành mạnh, nhất là minh bạch hóa thủ tục hành chính và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp. Thường xuyên tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh với doanh nghiệp để kịp thời giải quyết những vướng mắc; tạo mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa lãnh đạo chính quyền với cộng đồng doanh nghiệp. Kiên quyết thu hồi giấy phép các dự án đầu tư không triển khai đúng theo cam kết; thực hiện công tác định giá đất phù hợp và có tính ổn định lâu dài gắn với bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư để giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư thực hiện dự án.
    2- Tập trung phát triển vùng động lực, đồng thời chủ động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội miền núi bền vững
    Vùng đồng bằng, ven biển: Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, du lịch, dịch vụ, nhất là các khu vực trọng điểm, có tác động lan tỏa, phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Tập trung đầu tư vào hạ tầng các khu, cụm công nghiệp đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững, trọng tâm là phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai, gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng kết cấu hạ tầng và sử dụng đất. Tích cực kêu gọi đầu tư xây dựng các khu đô thị mới hoặc đô thị – dịch vụ tổng hợp ven biển theo hướng hiện đại, góp phần phát triển du lịch, thương mại. Chú trọng phát triển tổng hợp kinh tế biển, ngư nghiệp gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đẩy mạnh liên kết phát triển với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
    Vùng trung du, miền núi: Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và quy hoạch phát triển vùng, ngành. Nghiên cứu lập quy hoạch các vùng nguyên liệu, các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với các sản phẩm có sức cạnh tranh và giá trị kinh tế cao; quy hoạch xây dựng phát triển các khu dân cư, điểm dân cư tập trung, rà soát lại quỹ đất, bố trí sắp xếp lại dân cư và phát triển theo mô hình nông thôn mới, phù hợp với điều kiện thực tế từng địa phương.
    Thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép các dự án và chương trình giảm nghèo vào kế hoạch đầu tư phát triển chung của các địa phương nhằm hạn chế tối đa việc phân tán nguồn lực, tránh chồng chéo trong quản lý. Tập trung đầu tư mới, nâng cấp các công trình hạ tầng kinh tế – xã hội như: đường giao thông từ tỉnh đến huyện, từ trung tâm huyện tới xã, đường liên xã, liên thôn; các công trình thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, thông tin truyền thông; các công trình trường học nội trú, cơ sở dạy nghề; bệnh viện tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế, trạm chuyển tiếp phát thanh xã; nhà văn hóa xã, thôn; chợ khu vực cụm xã; tạo mặt bằng các cụm công nghiệp, làng nghề, trung tâm dịch vụ tổng hợp về nông, lâm, ngư nghiệp…
    Thực hiện tốt chính sách giao đất để nhân dân trồng rừng, phát triển rừng, giao khoán chăm sóc, bảo vệ rừng và hưởng lợi; hỗ trợ đầu tư khai hoang, phục hóa ruộng lúa nước; hỗ trợ giống, phân bón cho việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm; ưu đãi, khuyến khích thu hút các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động đầu tư trên địa bàn các huyện miền núi. Phát triển các loại cây hương liệu, dược liệu có thương hiệu gắn với chế biến các đặc sản của tỉnh như: sâm Ngọc Linh, ba kích, quế, các cây dược liệu quý… Tăng cường các biện pháp quản lý, ngăn chặn khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép.
    Ưu tiên đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục các cấp học. Đầu tư phát triển mạnh hệ thống trường dân tộc nội trú và mở rộng chính sách trợ cấp đối với học sinh và hỗ trợ đào tạo đội ngũ giáo viên người dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo ưu tiên theo hình thức cử tuyển, đào tạo chuyên sâu cho học sinh người dân tộc thiểu số sau khi đã tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học để tạo nguồn cán bộ tại chỗ, đủ chuẩn cho các xã miền núi; đồng thời tiếp tục thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ từ huyện về cơ sở và từ tỉnh về huyện để tăng cường năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền cấp huyện, cơ sở.
    Tiếp tục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Đầu tư phát triển hệ thống thông tin – truyền thông nhằm đảm bảo việc tiếp cận và hưởng thụ thông tin của người dân. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực tại các bệnh viện tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực cụm xã, trạm y tế, trạm quân dân y kết hợp ở những xã khu vực biên giới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; vận động và có chính sách đãi ngộ cao hơn nữa để thu hút đội ngũ bác sĩ về công tác tại các xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
    3- Tập trung nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
    Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương và thủ trưởng các ngành trong việc tổ chức thực hiện chương trình trong lĩnh vực và địa bàn phụ trách. Phát huy nội lực của cộng đồng dân cư và xã hội để xây dựng nông thôn mới.
    Tập trung thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch; chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn. Tiếp tục đẩy mạnh công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp gắn với quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hóa, bảo đảm tính bền vững. Có cơ chế khuyến khích nhân dân đầu tư đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp; nhân rộng các mô hình cánh đồng lớn, những vùng sản xuất chuyên canh tập trung.
    Đẩy mạnh phát triển các ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, các mặt hàng gia công, chế biến nông, lâm thủy sản; mở rộng phương thức liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp với hợp tác xã, nông hộ nhằm giải quyết “đầu vào, đầu ra” cho sản xuất.
    Thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác trên địa bàn với nguồn vốn thuộc chương trình nông thôn mới để phát huy hiệu quả đầu tư. Tăng cường quản lý nhà nước các nguồn lực đầu tư cho chương trình, nhất là hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất hiệu quả cho nông dân, hỗ trợ xây dựng các công trình công cộng… Việc huy động các nguồn lực xã hội cho xây dựng nông thôn mới thực hiện trên cơ sở tự nguyện, thống nhất nhận thức và đồng thuận cao của nhân dân.
    Chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức trong cán bộ và nhân dân. Phát huy vai trò của người có uy tín ở địa phương, già làng, trưởng thôn trong việc vận động nhân dân đóng góp sức người, sức của, hiến vật kiến trúc, cây lâu năm, quyền sử dụng đất…, cùng với ngân sách nhà nước thực hiện có hiệu quả các nội dung chương trình. Tiếp tục có cơ chế khuyến khích để các tổ chức, cá nhân vay vốn tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; huy động có hiệu quả nguồn lực từ đấu giá quyền sử dụng đất, cho thuê đất trên địa bàn để lại cho xã đầu tư xây dựng nông thôn mới.
    4- Tạo đột phá trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững
    Trong những năm đến, xác định giảm nghèo bền vững là một trong những nhiệm vụ đột phá của tỉnh. Tiếp tục nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các ngành, các địa phương và toàn xã hội về quan điểm, chính sách giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, xem đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nhằm làm thay đổi, chuyển biến trong tư duy, nhận thức và hành động đối với công tác giảm nghèo. Tổ chức điều tra, phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới của Trung ương thành các nhóm đối tượng cụ thể để có chính sách phù hợp với từng nhóm. Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách khuyến khích thoát nghèo bền vững giai đoạn 2014 – 2015 của tỉnh (thời gian thụ hưởng chính sách đến năm 2018), nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách này cho phù hợp với tình hình thực tế. Phấn đấu đến năm 2020, các thành phố, thị xã không còn hộ nghèo, các huyện đồng bằng tỷ lệ hộ nghèo dưới 2%, các huyện trung du, miền núi ở mức dưới 7% (không bao gồm hộ nghèo thuộc diện trợ cấp xã hội thường xuyên).
    Có cơ chế hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo về sản xuất, dạy nghề, tìm việc làm, tăng thu nhập để tự vươn lên thoát nghèo; đồng thời, tạo điều kiện để các hộ nghèo tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục – đào tạo, nhà ở, trợ giúp pháp lý, văn hóa, thông tin, thể dục – thể thao, bảo hiểm xã hội. Ưu tiên nguồn lực cho các địa phương đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để giảm nghèo nhanh, bền vững. Phấn đấu đến năm 2020, không còn nhà tạm đối với hộ nghèo.
    Thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn huy động để triển khai thực hiện giảm nghèo bền vững. Ưu tiên bố trí vốn từ ngân sách nhà nước, tăng cường huy động vốn từ ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác, chú trọng huy động sự đóng góp của doanh nghiệp và vận động tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Có cơ chế phù hợp để huy động các doanh nghiệp đầu tư các dự án sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày da … và đầu tư tại khu vực nông thôn, miền núi.
    5- Bảo vệ tốt tài nguyên và môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
    Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp, của các ngành chức năng và nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai; quản lý tốt tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh.
    Ngăn chặn, đẩy lùi vi phạm khai thác tài nguyên trái phép. Có giải pháp hiệu quả bảo vệ, ngăn chặn sự suy giảm về số lượng, chất lượng, khai thác, sử dụng bền vững và hiệu quả tài nguyên; khai thác trong giới hạn cho phép đối với tài nguyên tái tạo và sử dụng hiệu quả, hợp lý đối với tài nguyên không tái tạo. Phát huy nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ tài nguyên đất khỏi sự ô nhiễm, suy thoái; kiểm soát việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo hướng hạn chế chuyển đổi đất rừng, đất canh tác nông nghiệp. Tăng cường bảo vệ các nguồn nước và nâng cao khả năng tích nước, giữ nước; khuyến khích sử dụng nước tiết kiệm và tái sử dụng nước. Quản lý chặt chẽ việc khai thác khoáng sản, hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô. Giám sát, bảo vệ và sử dụng bền vững các tài nguyên biển và ven bờ. Bảo vệ, phát huy hiệu quả Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm và các khu bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh.
    Chú trọng công tác bảo vệ môi trường ngay từ khi quyết định đầu tư. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả đánh giá tác động môi trường, quan trắc, kiểm soát các nguồn thải và chất lượng môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường; xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nghiên cứu các kịch bản có thể xảy ra nhằm chủ động xây dựng kế hoạch, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, hạn chế thấp nhất hậu quả thiệt hại do thiên tai gây ra. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, công tác dự báo thời tiết, nhất là thời tiết nguy hiểm để nhân dân chủ động thực hiện các biện pháp ứng phó. Đầu tư đồng bộ các công trình xử lý chất thải, nước thải; các công trình cung cấp nước sạch cho nhân dân.
    6- Đổi mới giáo dục – đào tạo, phát triển khoa học – công nghệ, quản lý phát triển xã hội và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
    Tiếp tục phát triển đồng bộ hệ thống giáo dục – đào tạo, cân đối cơ cấu và quy mô, đa dạng hình thức học tập, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, suốt đời của nhân dân, hướng tới “xã hội học tập”. Thực hiện tốt phân luồng học sinh cuối cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Chú trọng phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; tạo điều kiện thuận lợi cho nhân tài phát huy hết khả năng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của tỉnh. Đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở vật chất giảng dạy và học tập từ bậc mầm non đến bậc đại học. Triển khai ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý của nhà trường. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục truyền thống, ý thức chấp hành pháp luật nhằm bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong, kỷ luật lao động đáp ứng xu thế hội nhập, phát triển của đất nước. Tăng cường công tác khuyến học, khuyến tài, quan tâm định hướng nghề nghiệp, giáo dục lý tưởng, kỹ năng sống, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Xây dựng, phát triển các trường cao đẳng, đại học ngang tầm với các trường trong khu vực miền Trung, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của khu vực và cả nước. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục ở khu vực miền núi, đầu tư phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú (nhất là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở) nhằm tạo điều kiện nâng cao kiến thức chung, góp phần đào tạo cán bộ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng Trường Phổ thông trung học dân tộc nội trú tỉnh thành trường chất lượng cao cho học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số.
    Xây dựng và phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ đồng bộ, trọng tâm là xây dựng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; nâng cao hơn nữa hiệu quả việc tập hợp, phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trong phản biện, giám định xã hội về khoa học và công nghệ. Tăng cường chất lượng các hoạt động đánh giá, nghiệm thu chuyển giao các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học. Tiến hành quy hoạch, xây dựng, hình thành và phát triển một số cơ quan khoa học – công nghệ của tỉnh như: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới. Bố trí đủ nguồn tài chính cho các hoạt động khoa học và công nghệ và vốn đầu tư phát triển trang bị cho các phòng thí nghiệm, xây dựng nguồn lực thông tin phục vụ nghiên cứu khoa học nhằm tạo đà cho khoa học và công nghệ phát triển, qua đó, ứng dụng vào nhiều lĩnh vực đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống nhân dân, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Khuyến khích đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại cho những ngành, sản phẩm công nghiệp chủ lực có quy mô lớn và những khâu quyết định đến nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hóa, sản phẩm. Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế để chuyển giao, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời sống. Chú trọng việc xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ cả về pháp lý và các hình thức tổ chức thị trường để các sản phẩm khoa học và công nghệ nhanh chóng được chuyển giao áp dụng vào sản xuất. Thực hiện cơ chế đặt hàng của Đảng, chính quyền trong việc nghiên cứu tạo lập căn cứ khoa học và thực tiễn trong việc quyết định các chủ trương phát triển của tỉnh, ngành, địa phương.
    Thực hiện có hiệu quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho mọi người dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp…, sớm khắc phục tình trạng nợ bảo hiểm của các doanh nghiệp. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, phát triển nhà ở cho công nhân có thu nhập thấp, công nhân các khu công nghiệp và sinh viên. Từng bước xây dựng hạ tầng xã hội thiết yếu như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, cơ sở khám chữa bệnh cho lao động tại các khu công nghiệp của tỉnh; trước hết, tập trung cho Khu kinh tế mở Chu Lai và Khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc.
    Các cấp, các ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu lao động và giải quyết việc làm cho người lao động; trong đó, có xuất khẩu lao động. Tăng cường đào tạo nghề, nhất là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và ở nông thôn, miền núi gắn với nhu cầu thị trường, khả năng tạo việc làm và phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; chú trọng đào tạo và thu hút nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận khoa học – kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh cao hơn mức bình quân của cả nước.
    Thực hiện tốt chính sách, chế độ ưu đãi người có công; đẩy nhanh việc giải quyết các trường hợp tồn đọng về công nhận người có công và các trường hợp công nhận mới. Đẩy mạnh Cuộc vận động “Toàn dân tham gia công tác đền ơn đáp nghĩa” nhằm huy động các nguồn lực của cộng đồng để chăm sóc người có công, trợ giúp xã hội, nhận phụng dưỡng các Mẹ Việt Nam anh hùng. Thực hiện nâng cấp, tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ, phấn đấu đến cuối năm 2020, hầu hết các nghĩa trang liệt sĩ được nâng cấp, tôn tạo khang trang bền đẹp.
    Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, kiểm soát không để xảy ra dịch bệnh lớn. Tiếp tục củng cố, tăng cường tiềm lực y tế các tuyến từ tỉnh đến cơ sở, nhất là nhân lực và cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao trong chẩn đoán, điều trị bệnh nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp khám, chữa bệnh hiện đại, kết hợp với phát triển y học cổ truyền. Nâng cao y đức, đấu tranh phòng ngừa tiêu cực trong hoạt động khám, chữa bệnh. Khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến tỉnh.
    Thực hiện tốt chủ trương bảo hiểm y tế toàn dân, bảo hiểm y tế cho người có công, người nghèo, cận nghèo, bảo trợ xã hội, dân tộc thiểu số và trẻ em dưới 6 tuổi. Nâng cao chất lượng công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Tăng cường tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của xã hội đối với công tác chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em; giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số. Chú trọng công tác gia đình, thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
    Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc tuyên truyền, giáo dục thanh, thiếu niên về tác hại của ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Đấu tranh, xử lý kiên quyết đối với việc buôn bán, sử dụng ma túy. Đề cao trách nhiệm của gia đình, đoàn thể và chính quyền cơ sở trong quản lý các đối tượng nghiện ma túy, tổ chức cai nghiện, giáo dục và tạo việc làm, tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng. Có giải pháp kiểm soát và hạn chế tệ nạn mại dâm, giảm thiểu tác hại của các tệ nạn xã hội. Tổ chức có hiệu quả phong trào thi đua và nhân rộng các điển hình xã, phường, thôn, khu dân cư không có tệ nạn xã hội.
    Huy động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở triển khai tích cực, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông. Trong đó, cần quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về chấp hành pháp luật, đồng thời, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật giao thông; củng cố hạ tầng kỹ thuật, phương tiện giao thông công cộng và năng lực tổ chức, quản lý giao thông – vận tải…
    7- Xây dựng, phát triển văn hóa, con người
    Xây dựng văn hóa toàn diện, thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là động lực quan trọng để phát triển của tỉnh. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, lấy gia đình, tộc họ, thôn, khối phố, cơ quan, đơn vị làm cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội, ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, các tệ nạn xã hội… Tiếp tục đầu tư phát triển và khai thác có hiệu quả các thiết chế văn hóa, nhất là các thiết chế ở cơ sở. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, chú trọng nâng cao đời sống văn hóa ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị với nông thôn. Gắn xây dựng và phát triển văn hóa với xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị thật sự văn minh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Quảng Nam.
    Quan tâm phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa của tỉnh. Có cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật; đồng thời, nghiên cứu các cơ chế, chính sách, chế độ về đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo và phổ biến nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Tăng cường sưu tầm, bảo tồn, phổ biến và phát huy văn nghệ dân gian, nghệ thuật quần chúng, thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
    Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống cơ quan báo chí, phát thanh – truyền hình, truyền thanh. Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, làm tốt chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các hệ thống thông tin đại chúng từ tỉnh đến cơ sở, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân; tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống cơ quan báo chí, phát thanh – truyền hình trên địa bàn tỉnh. Củng cố mạng lưới thông tin truyền thông, các đội thông tin lưu động ở cơ sở; thực hiện hiệu quả việc đưa thông tin về cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ nhà báo vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Quản lý tốt việc sử dụng internet để hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, văn hóa không lành mạnh.
    Chăm lo xây dựng con người phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học tập trung vào việc xây dựng con người Quảng Nam có thế giới quan khoa học, hướng tới chân – thiện – mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tăng cường giáo dục lý luận chính trị mà nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống, nhân cách, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân… Ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
    Quan tâm nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho người lao động đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập nhằm phát huy năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân và cộng đồng đối với sự nghiệp phát triển Quảng Nam.
    Tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường. Đẩy mạnh hoạt động phong trào thể dục – thể thao quần chúng; đồng thời, phát triển một số ngành thể thao thành tích cao mà tỉnh có tiềm năng và thế mạnh.
    8- Bảo đảm quốc phòng – an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại
    Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Tập trung xây dựng các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị, tinh thần và xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện. Triển khai thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng – an ninh cho các đối tượng; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh thật sự, có chất lượng chính trị và độ tin cậy cao. Chú trọng xây dựng lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên, lực lượng dân quân cơ động, dân quân thường trực theo biên chế; huấn luyện, diễn tập sát thực tế, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt chủ trương gắn kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
    Chủ động nắm chắc, dự báo chính xác tình hình, phát hiện, ngăn ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập, không để xảy ra khủng bố, gây rối an ninh, trật tự, bạo loạn trên địa bàn. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm và các tệ nạn xã hội; nâng cao tỷ lệ, chất lượng điều tra, khám phá án; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
    Chủ động, tích cực, sáng tạo và nâng cao hiệu quả hơn nữa trong các hoạt động đối ngoại của Đảng, chính quyền và đối ngoại nhân dân và hội nhập quốc tế. Chú trọng việc giới thiệu, quảng bá văn h, tiềm năng và thế mạnh của Quảng Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại. Duy trì và phát triển hơn nữa quan hệ truyền thống đặc biệt với tỉnh Sê Kông (Lào). Chủ động mở rộng hợp tác với các địa phương của các nước trong khối ASEAN và các nước có khả năng thu hút đầu tư. Tăng cường quan hệ với các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài nhằm tranh thủ các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Xử lý tốt các vấn đề phát sinh có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
    9- Tăng cường công tác nội chính; phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp
    Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí. Các cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải có kế hoạch chỉ đạo và chịu trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở đơn vị mình phụ trách; thường xuyên triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; kiên quyết thu hồi tiền, tài sản bị tham nhũng. Thực hiện tốt việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
    Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan tư pháp, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 và Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đạt kết quả. Coi trọng công tác sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan tư pháp. Thực hiện tốt các quy định của pháp luật và quy chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, cơ quan tố tụng và giữa các cơ quan tố tụng với cấp ủy, tổ chức đảng cùng cấp trong xử lý công tác tư pháp, tố tụng theo quy định của Đảng.
    Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo đảm đúng pháp luật, kịp thời. Tập trung giải quyết và xử lý các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, không để tồn đọng, kéo dài hoặc xảy ra tình trạng khiếu nại vượt cấp. Người đứng đầu phải trực tiếp giải quyết thông qua việc tiếp công dân theo định kỳ hoặc đối thoại trực tiếp với các đối tượng khiếu nại, tố cáo để giải quyết dứt điểm các vụ việc, bảo đảm đúng thời gian, quy định.
    10 – Phát huy dân chủ, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
    Phát huy dân chủ, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân để xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở các cấp. Tập trung lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở phát huy vai trò làm chủ của người dân. Thường xuyên tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đối với nhân dân để lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân.
    Tiếp tục có những chính sách cụ thể nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, xây dựng giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức, công tác thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội; thực hiện tốt vai trò, chức năng giám sát, phản biện xã hội, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân của Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội.
    Củng cố, kiện toàn bộ máy của Mặt trận, các đoàn thể chính trị – xã hội phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của công tác vận động quần chúng trong tình hình mới, khắc phục tình trạng “hành chính hóa”. Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đạo đức, phẩm chất, năng lực, nhiệt tình, có uy tín, khả năng để bổ sung vào đội ngũ cán bộ làm công tác Mặt trận, các đoàn thể chính trị – xã hội nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
    11- Xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh
    Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2016 – 2021; đồng thời, củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân các cấp trong nhiệm kỳ đến.
    Tiếp tục nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là các kỳ họp để ban hành nghị quyết khả thi, sát đúng thực tiễn, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của cử tri. Tăng cường công tác giám sát thực hiện nghị quyết Hội đồng nhân dân, giám sát việc thực hiện các chính sách và pháp luật.
    Thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân các cấp. Chỉ đạo chặt chẽ các cơ quan, các ngành và địa phương thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được phân công phụ trách, nhất là quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, quản lý, bảo vệ rừng, quản lý các chương trình, dự án đầu tư. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính theo hướng đồng bộ để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ ở các cấp.
    12- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ
    – Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng: Tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu trong toàn Đảng bộ và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục thực hiện có chất lượng, hiệu quả Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên.
    Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên theo dõi, nắm bắt và dự báo kịp thời tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm lãnh đạo, chỉ đạo xử lý tình hình kịp thời, toàn diện, định hướng tư tưởng, dư luận xã hội, không để xảy ra điểm nóng nhằm giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng, góp phần vào sự phát triển bền vững của tỉnh. Tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ bản chất, diễn biến tình hình thế giới nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác; kiên quyết chống lại những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
    Tổ chức thực hiện có hiệu quả việc học tập, quán triệt, nghiên cứu và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp; các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) và các nghị quyết của Tỉnh ủy (khóa XXI). Trong đó, chú trọng xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn và nhân rộng những mô hình, cách làm hay, hiệu quả cao.
    Tích cực đổi mới phương thức, nội dung công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng bám sát cơ sở, phù hợp với thực tiễn từng địa phương, từng đối tượng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận của xã hội. Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp. Quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục thực hiện công tác biên soạn và giáo dục lịch sử Đảng bộ tỉnh, các đảng bộ địa phương, đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy và lịch sử truyền thống các ngành.
    – Công tác xây dựng Đảng về tổ chức: Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức trong toàn Đảng bộ. Kiên trì đổi mới mạnh mẽ, đột phá về công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
    Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý, vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, có năng lực và trình độ, thật sự có tâm và có tầm để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Làm tốt công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc thật sự dân chủ và công khai, minh bạch trong việc thực hiện các khâu của công tác cán bộ. Hết sức coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn, nhất là cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện đúng các nguyên tắc quản lý cán bộ theo phân cấp quản lý.
    Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chăm lo bồi dưỡng kết nạp đảng viên, nhất là ở những địa bàn, đơn vị chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên, khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt; bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu trong sinh hoạt ở các tổ chức cơ sở đảng. Tạo sự chuyển biến rõ rệt về hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự gương mẫu, gần dân, có trách nhiệm với dân, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
    Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo quy định của Trung ương, gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về chính trị, đạo đức; đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện mất đoàn kết, bè phái, “lợi ích nhóm”, cá nhân chủ nghĩa và mọi âm mưu phá hoại nội bộ Đảng của các thế lực thù địch.
    – Công tác kiểm tra – giám sát: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng theo Điều lệ Đảng, quy định của Trung ương, chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm của cấp ủy đảng. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát theo hướng giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm. Chú trọng kiểm tra, giám sát tập thể gắn với trách nhiệm người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao để chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm. Tập trung vào việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết có liên quan đến dân sinh, đến phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và địa phương; những lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm, nổi cộm, bức xúc, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
    Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động tham mưu cấp ủy đảng trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; đồng thời, thực hiện toàn diện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, trong đó, thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm.
    Kiện toàn bộ máy hoạt động của hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp, tăng cường đủ về số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; thực hiện luân chuyển cán bộ làm công tác kiểm tra Đảng; cải thiện điều kiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế làm việc và quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
    – Công tác dân vận: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Tiếp tục thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dân vận của cả hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị (khóa XI) về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân nhân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, các chính sách dân tộc, tôn giáo…
    Quan tâm hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể chính trị – xã hội đối với công tác dân vận, phải thấu suốt quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân”, thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm phát huy mọi tiềm năng sáng tạo và vai trò làm chủ của nhân dân.
    – Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng: Các cấp ủy, tổ chức đảng cần rà soát lại quy chế tổ chức, hoạt động, mối quan hệ công tác với các cơ quan trong hệ thống chính trị, nhất là giữa cấp ủy với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội cùng cấp; mối quan hệ trong nội bộ từng cơ quan, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Thực hiện cải cách hành chính trong công tác Đảng, nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, cán bộ, đảng viên đối với công việc được giao, thực hiện đổi mới phương pháp, phong cách làm việc khoa học, phát huy dân chủ, bám sát thực tiễn, gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân và giải quyết các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành nghị quyết của các cấp ủy đảng phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.

    Từ nay đến năm 2020, toàn Đảng bộ tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy bản sắc văn hóa và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; tập trung đầu tư tạo đột phá, phấn đấu đưa Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

    (1) So với cả nước, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh Quảng Nam thuộc nhóm trung bình thấp, xếp thứ 40/63 tỉnh, thành phố.
    (2) Toàn tỉnh hiện có 2.500 tổ hợp tác, 164 hợp tác xã. Trong 5 năm qua, thành lập mới 88 tổ hợp tác, 29 hợp tác xã; số hợp tác xã hoạt động hiệu quả, được đánh giá tiên tiến khoảng 40%.
    (3) Năm năm qua, đã có gần 3.200 doanh nghiệp trong nước, 46 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào tỉnh.
    (4) Với trên 140 tàu công suất lớn (trên 90CV) năm 2010, đến nay, toàn tỉnh đã có trên 455 tàu, tăng trên 60 tàu/năm. Sản lượng khai thác thủy, hải sản tăng bình quân hơn 3.700 tấn/năm. Giá trị nuôi trồng thủy sản trên 1 ha đất canh tác năm 2015 ước đạt 335 triệu đồng, gấp 1,8 lần so với năm 2010.
    (5) Nổi bật là các công trình: Cầu Cửa Đại, Cầu Kỳ Phú 1 và 2, Đường Nam Quảng Nam, Quốc lộ 1A, Cầu Gò Nổi, Cầu Ái Nghĩa… 30 tuyến đường ô tô đến trung tâm xã với tổng chiều dài hơn 464km, bê tông hóa được gần 1.500km đường giao thông nông thôn. Cầu Giao Thủy đang được khẩn trương thi công để kết nối với các huyện phía tây bắc của tỉnh.
    (6) Toàn tỉnh hiện có 299 cơ sở y tế (1 bệnh viện đa khoa Trung ương, 1 bệnh viện đa khoa tỉnh, 2 bệnh viện đa khoa khu vực, 4 bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh, 5 bệnh viên đa khoa tư nhân, 18 bệnh viện huyện, 12 trung tâm và chi cục tuyến tỉnh, 12 phòng khám khu vực, 244 trạm y tế) với gần 5.700 cán bộ, trong đó, có khoảng 900 bác sĩ, đạt tỷ lệ 6 bác sĩ/1 vạn dân, tỷ lệ giường bệnh đạt hơn 29 giường/1 vạn dân (chưa kể giường bệnh ở các trạm y tế).
    (7) Trong 5 năm qua, có 2.056 trường hợp được Trung ương phong, truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng, nâng tổng số Mẹ Việt Nam anh hùng toàn tỉnh lên 11.659 người, trong đó, có 1.105 mẹ còn sống.
    (8) Trong 5 năm qua, toàn tỉnh đã tổ chức thực hiện trên 140 đợt điều tra dư luận xã hội, tập trung những chủ đề về thực hiện các nghị quyết của Đảng, những vấn đề nổi cộm, bức xúc tại các địa phương.
    (9) Trong nhiệm kỳ, đã mở 21 lớp lý luận chính trị và chuyên đề, có 3.617 học viên tham dự. Toàn tỉnh đã tổ chức 3.015 lớp thuộc các chương trình: lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và các lớp chuyên đề theo yêu cầu của cấp ủy cho 432.827 lượt cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên.
    (10) Cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ đại học, đối với các huyện đồng bằng 59,42%, đối với các huyện miền núi 26,1%; công chức cấp xã các huyện đồng bằng đạt 3 chuẩn 70,56%; phó trưởng phòng và tương đương thuộc huyện có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị 52,46%; giám đốc, phó giám đốc sở và tương đương có trình độ sau đại học 33,3%, vượt chỉ tiêu 8,3%; trưởng phòng và tương đương thuộc sở, ngành, đoàn thể tỉnh có trình độ đại học 97,4%.
    (11) Nhiệm kỳ qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp kiểm tra 2.990 lượt tổ chức và 6.257 lượt đảng viên; giám sát chuyên đề 1.978 lượt tổ chức và 3.265 lượt đảng viên theo Điều 30 Điều lệ Đảng. UBKT các cấp đã kiểm tra 483 tổ chức đảng và 1.497 lượt đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Cấp ủy và UBKT các cấp đã xem xét, xử lý kỷ luật theo thẩm quyền 1.237 đảng viên vi phạm với các hình thức: Khiển trách 776; Cảnh cáo 341; Cách chức 38; Khai trừ 82.
    (12) Trọng tâm và xuyên suốt là Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Nghị quyết 11-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XIX) về công tác dân vận trong tình hình mới; Quyết định 1422-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIX) về ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
    (13) Tốc độ tăng trưởng GRDP, chỉ tiêu là 13,5%, thực hiện 11,5%. Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, chỉ tiêu là dưới 12%, thực hiện 16%. Tỷ lệ tăng vốn đầu tư toàn xã hội, chỉ tiêu tăng bình quân 14%/năm, thực hiện ước đạt 10,2%/năm. Tỷ lệ lao động NLTS, chỉ tiêu là dưới 42%, thực hiện 50,1%; tỷ lệ lao động CNXD-DV, chỉ tiêu trên 58%, thực hiện 49,9%.
    (14) Tỷ lệ hộ nghèo (dự kiến năm 2015) của tỉnh Quảng Nam: 8,9%, cả nước dưới 5%.

    Bình chọn

    BÌNH LUẬN

    Vui lòng nhập bình luận của bạn
    Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

    ĐỌC NHIỀU